Công ước của Liên Hợp Quốc (LHQ) về Luật Biển năm 1982 được thông qua ngày 30/4/1982, đánh dấu kết quả sau 9 năm đàm phán của Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 của LHQ (1973-1982) nhằm xây dựng một văn kiện pháp lý quốc tế mới về biển và đại dương, phù hợp với lợi ích chung của các quốc gia.
Được coi như “Hiến pháp về biển và đại dương”, Công ước Luật Biển năm 1982 (United Nations Convention on the Law of the Sea hay UNCLOS) gồm 17 phần, 320 điều và 9 phụ lục, quy định một cách toàn diện về quy chế pháp lý của các vùng biển cũng như các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia dù có biển, không có biển hay gặp bất lợi về mặt địa lý trong việc sử dụng, khai thác và quản lý biển và đại dương. Văn kiện này không chỉ kế thừa các điều ước quốc tế về biển trước đó mà còn pháp điển hóa các quy định mang tính tập quán quốc tế cũng như những xu hướng phát triển mới của việc sử dụng và khai thác biển và đại dương.
Công ước Luật Biển 1982 ra đời đánh dấu sự hình thành một khuôn khổ pháp lý quốc tế toàn diện điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của tất cả các quốc gia trong sử dụng biển, quản lý các nguồn tài nguyên biển và bảo tồn các nguồn tài nguyên này cho thế hệ mai sau. Công ước đã đặt ra cơ sở để xác định các vùng biển và căn cứ cho các quốc gia xác lập chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển và tiến hành các hoạt động trên biển.
Việc Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên phải chấp thuận sự điều chỉnh cả gói (package deal) và không cho phép bảo lưu bất kỳ điều khoản nào, ngoại trừ những tuyên bố cụ thể theo quy định của Công ước, bảo đảm việc tuân thủ và thực hiện đầy đủ Công ước.
Với vai trò là “Hiến pháp của biển và đại dương”, Công ước Luật Biển 1982 là khuôn khổ pháp lý quan trọng cho việc xây dựng các văn kiện pháp lý khác về biển và đại dương.
Trước hết, phải kể đến Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của Công ước và Hiệp định năm 1995 về đàn cá lưỡng cư và di cư xa. Các điều ước quốc tế khác về biển và đại dương đều ít nhiều căn cứ vào các quy định của Công ước Luật biển 1982 do tính chất toàn diện, bao trùm của Công ước.
Hiện nay, trong khuôn khổ Công ước, các quốc gia đang tham gia vào tiến trình đàm phán văn kiện pháp lý mới về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học tại các khu vực nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia (BBNJ) để điều chỉnh các hình thức hoạt động mới ở biển cả và đáy đại dương, hướng tới bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên chung của nhân loại. Văn kiện này sẽ là sự bổ sung quan trọng cho các quy định của Công ước về bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển và nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia trong bảo tồn và sử dụng bền vững biển và đại dương.
Do vậy, có thể nói Công ước Luật Biển 1982 góp phần thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững của LHQ, đặc biệt là Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và các nguồn tài nguyên biển.
Bên cạnh các chế định về quy chế pháp lý các vùng biển, quyền và nghĩa vụ của các quốc gia, Công ước cũng quy định cơ chế bắt buộc nhằm giải quyết tranh chấp nảy sinh giữa các quốc gia trong giải thích và áp dụng Công ước.
Theo quy định tại Phần XV của Công ước, khi phát sinh tranh chấp, các quốc gia cần giải quyết một cách hòa bình, bằng các biện pháp do các bên lựa chọn như đối thoại, đàm phán, hòa giải… Nếu các biện pháp trên không đem lại giải pháp, các bên có thể thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại các cơ quan tài phán quốc tế như Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), Tòa án Luật Biển quốc tế (ITLOS, cơ quan được thành lập bởi Công ước) hoặc tòa trọng tài, tòa trọng tài đặc biệt. Phán quyết của các cơ quan tài phán theo quy định của Công ước, đặc biệt là ITLOS và Tòa Trọng tài đã góp phần giải thích các quy định của Công ước, loại bỏ sự mơ hồ có thể bị lợi dụng để biện minh cho các yêu sách và hành động sai trái. Điều này giúp duy trì trật tự trên biển, bảo vệ mọi hoạt động sử dụng biển một cách hợp pháp và hòa bình, đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, phục vụ phát triển của mỗi quốc gia, khu vực và toàn thế giới.
Công ước Luật Biển 1982 có tầm quan trọng không thể phủ nhận trong đời sống pháp luật quốc tế hiện nay. Văn kiện này đã thực sự trở thành căn cứ pháp lý vững chắc để xác định quyền và nghĩa vụ của các quốc gia và xử lý các vấn đề liên quan đến biển và đại dương.
Là một quốc gia ven biển, Việt Nam luôn đi đầu và không ngừng nỗ lực trong việc thực hiện Công ước Luật Biển 1982 kể từ khi chấp nhận sự ràng buộc và trở thành một quốc gia thành viên của Công ước 25 năm trước./.